Kết quả đạt được

Liên kết website

Một số nội dung cơ bản của Luật trẻ em số 102/2016/QH13
Ngày đăng: 06/12/2017   |  
        
  

 

Luật Trẻ em được Quốc hội Khóa XIII thông qua ngày 05/4/2016 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/6/2017.

Luật Trẻ em 2016 gồm 7 chương, 106 điều, tăng thêm 2 chương và 46 điều so với Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em 2004 (Luật số 25/2004/QH11 ngày 15/6/2004 của Quốc Hội).

Luật Trẻ em 2016 đã thể chế hóa các chủ trương của Đảng, Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong tình hình mới, ghi nhận đầy đủ các quyền của trẻ em và tiếp cận trên quyền của trẻ em, đồng thời có nhiều điểm đổi mới tích cực, dễ hiểu và dễ tiếp cận. Dưới đây là một số nội dung cơ bản của Luật trẻ em 2016:

Các khái niệm (Chương 1 - Điều 1, Điều 4)

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 và Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Luật Trẻ em quy định rõ trẻ em là người dưới 16 tuổi. Khái niệm mới này không còn giới hạn trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi (quy định tại Điều 1 - Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em 2004), mà đối tượng áp dụng của Luật còn bao gồm cả trẻ em là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam. Bên cạnh đó, 11 khái niệm tại Điều 4 của Luật Trẻ em được giải thích rõ, đặc biệt các khái niệm về phát triển toàn diện của trẻ em; chăm sóc thay thếxâm hại trẻ emxâm hại tình dục trẻ em; giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em;...

Những hành vi bị nghiêm cấm (Chương 1 - Điều 6)

Những hành vi bị nghiêm cấm được bổ sung trong luật như tước đoạt quyền sống của trẻ emcản trở trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mìnhcông bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ emkhông thực hiện trách nhiệm hỗ trợ trẻ em có nguy cơ hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm,…

 *          Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (Chương 1 - Điều 10)

Nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được bổ sung mới như trẻ em bị tổn hại nghiêm trọng về thể chất và tinh thần do bị bạo lựctrẻ em bị bóc lộttrẻ em bị mua bán; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh phải điều trị dài ngày thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèotrẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha mẹ hoặc không có người chăm sóc.

  Quyền của trẻ em (Chương 2 – Mục 1)*

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 và Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Luật trẻ em 2016 quy định 25 nhóm quyền của trẻ em (tăng hơn 15 quyền so với Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em 2004) . Việc tăng số quyền của trẻ em thể hiện sự quan tâm của Nhà nước và xã hội đối với thế hệ tương lai của đất nước và cũng là phù hợp với Công ước về quyền trẻ em 1989.

Đáng chú ý, một trong những quyền được quy định trong Luật trẻ em là quyền bí mật đời sống riêng tư. Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư (Nghị Định 56/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em).

Khi không còn cha mẹ, không được hoặc không thể sống cùng cha mẹ đẻ, bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa, xung đột vũ trang, trẻ em có quyền được chăm sóc thay thế vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trẻ em được nhận làm con nuôi theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi.

Với điểm nóng chống xâm hại tình dục ở trẻ em, luật quy định rõ trẻ em có quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục dưới mọi hình thức bạo lực về thể chất hoặc tinh thần, bị đánh đập hay lạm dụng, bị bỏ mặc bao gồm cả sự xâm phạm tình dục.

Không bị giới hạn bởi độ tuổi, trẻ em có quyền được tiếp cận thông tin đầy đủ, kịp thời, phù hợp; có quyền tìm kiếm, thu nhận các thông tin dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật và được tham gia hoạt động xã hội phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành, nhu cầu, năng lực của trẻ em.

Quyền được bày tỏ ý kiến và hội họp đảm bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em, và những quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách thích đáng, tương ứng với độ tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ em phù hợp với công ước về quyền trẻ em. Đồng thời, trẻ em có quyền thể hiện ý kiến của mình khi Nhà nước xây dựng chính sách, pháp luật tác động với trẻ em, được ưu tiên nguồn lực để thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em, bao gồm cả nguồn tài chính và nguồn nhân lực.

Bổn phận của trẻ em (Chương 2 – Mục 2)

Bên cạnh các quyền, trẻ em cần thực hiện bổn phận của mình với gia đình, nhà trường, cộng đồng, đất nước và chính bản thân các em, được quy định cụ thể trong Luật Trẻ em phù hợp với chế định về nghĩa vụ công dân của Hiến pháp năm 2013, Năm điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng và phù hợp với yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng con người Việt Nam trong bối cảnh mới.

Một trong những điểm mới nổi bật trong Luật Trẻ em 2016 là quy định cụ thể các nội dung về các cấp độ bảo vệ trẻ em (phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp) và trách nhiệm thực hiện; cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; chăm sóc thay thế; các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng.

Các biện pháp phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp được quy định cụ thể, cùng với trách nhiệm thực hiện của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc bảo vệ trẻ em. Luật quy định các loại hình cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em ở cả ba cấp độ, không chỉ dừng lại ở việc can thiệp đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Tại điều 53 của Luật Trẻ em quy định cụ thể trách nhiệm của người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã.

Để cơ chế giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em được khả thi và hiệu quả, Luật Trẻ em cũng quy định rõ nhiệm vụ của tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em là Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Điều 77).

Với rất nhiều điểm đổi mới tích cực như vậy, để Luật trẻ em thực sự đi vào thực tiễn đời sống, chúng ta cần thực hiện một số biện pháp như:

Tổ chức phối hợp liên ngành về các vấn đề liên quan đến trẻ em nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình thực hiện quyền trẻ em giữa các cơ quan ở Trung ương, các tổ chức, các địa phương;

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục từ phía gia đình tới cộng đồng dân cư nhằm giúp nhân dân nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành và tôn trọng pháp luật, góp phần đưa Luật trẻ em tiếp cận sâu rộng tới người dân;

Ngoài ra, đặc biệt chú trọng tuyên truyền tại các trường học để trẻ em biết tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân khi tham gia các quan hệ pháp luật. 

Bích Phượng (tổng hợp)

  

Tập tin Tiếng Việt:

Các tin khác cialis